Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014
Kinh tế khí hậu xa và gần
Sự thảm liệt của cơn bão Haiyan, khiến Philippines phải cần đến 5 năm, với hoài gần 2 tỉ USD để tái thiết và bình phục. Ảnh: TLCK “Đánh bạc với trời…” Tại Việt Nam, câu nói “đánh bạc với trời…” không phải là mới đối với nhiều dân cày, ngư gia, diêm dân… nói chung là bít tất những ai mà sinh kế phải phụ thuộc cao vào thời tiết, vào dòng chảy, vào thời vụ… giao hội các số liệu thống kê của cơ sở Dữ liệu sự kiện nguy cấp (EM-DAT), tổ chức Y tế thế giới và ủy ban gian lụt bão Trung ương, làng nhàng mỗi năm Việt Nam thiệt hại khoảng 1,9 tỉ USD tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo sức mua (PPP), hay 1,3% GDP do các trận bão lũ gây ra. Tháng 11.1997, cơn bão Linda (bão số 5) đổ bộ vào vùng biển Cà Mau gây tổn thất 778 người và mất tích 2.123 người, làm bị thương 1.232 người, thiệt hại vật chất ước lượng đến 7.200 tỉ song song điểm lúc đó. Trận lũ năm 2000, có hơn 750 người chết và bị thương, thiệt hại kinh tế lên tới 4.600 tỉ đồng. Năm 2006, cơn bão Xangsane gây thiệt hại khoảng 1,2 tỉ USD tại các tỉnh duyên hải miền Trung. Các ước tính của tổ chức CARE và Oxfam cho biết, hiện tượng biến đổi khí hậu có thể gây thiệt hại 1 – 3% GDP của Việt Nam. Tự nhiên nổi giận Thiên nhiên đã trị các hành động tàn phá môi sinh của con người. Vừa qua, trận siêu bão Haiyan càn quét qua thành thị Tacloban của Philippines chưa quá năm giờ, thiệt hại về cơ sở hạ tầng đã là hơn 885 triệu USD. Quay về quá vãng, trận địa chấn gần 10 độ Richter gây sóng thần kinh hoàng năm 2004 ở ngoài khơi Ấn Độ Dương đã giết chết gần 250.000 người ở 11 quốc gia. Bảy năm sau, 2011, một trận động đất và sóng thần với cường độ rưa rứa đã xảy ra ngoài khơi phía đông Nhật Bản, số người chết khoảng 11.000 người, thiệt hại về vật chất thì cao kỷ lục thế giới: hơn 300 tỉ USD, vượt hơn 12 lần so với siêu bão Katrina tiến công nước Mỹ năm 2005. Theo ước lượng của Nordhaus (2005), nếu nhiệt độ không khí toàn cầu tăng thêm chừng 2,5 độ C thì thiệt hại cho toàn cầu vào khoảng 1,5 – 1,9% tổng sản lượng quốc gia (GNP) toàn thế giới, riêng các nước ở châu Phi tác động này có thể gần đến 4%, còn Ấn Độ là 5%. Trong hội nghị về biến đổi khí hậu lần thứ 19 do Liên hiệp quốc tổ chức tháng 11.2013 – gọi tắt là COP19 tại thủ đô Warsaw của Ba Lan, nhà băng Thế giới đã đưa ra con số thiệt hại do thời tiết cực đoan gây ra đối với kinh tế toàn cầu trong một thập kỷ qua đã tăng lên gần 200 tỉ USD/năm, và khi tình trạng nóng lên toàn cầu nhanh hơn gây hiện tượng biến đổi khí hậu và nước biển dâng theo chiều hướng xấu thêm thì thiệt hại kinh tế sẽ đấu tăng cao. Khả năng kéo ngược diễn biến khí hậu hiện trở về dĩ vãng vài ba thập niên trước dường như hết sức khó trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và chính trị giờ. Nhật Bản, một trong các quốc gia thủ xướng sáng kiến và cho ra đời nghị định thư Kyoto ký ngày 11.12.1997 và có hiệu lực từ ngày 16.2.2005, hợp nhất giữa các nhà nước công nghiệp trong vấn đề cắt giảm khí thải trên 5,2% so với năm 1990. Tuy nhiên, do sự cố rò rỉ phóng xạ từ thảm họa địa chấn và sóng thần, Nhật Bản phải đóng cửa các lò phản ứng hạt nhân, chuyển sang dùng nhiên liệu hóa thạch khiến đích giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính chỉ còn 3,8% đến năm 2020, thay vì 25% như đã cam kết. Cũng tại COP19, Canada không còn tích cực dự cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu. Sơn hà băng giá suốt tám tháng trong một năm này lại thấy hiện tượng nóng lên toàn cầu có vẻ tạo cho họ những thuận lợi: nhiều vùng đất canh tác ở Canada có được mùa hè dài hơn, diện tích canh tác mở rộng hơn, việc trồng dễ dàng hơn, ngoại giả băng đá trên biển tan nhiều hơn giúp chuyển vận thủy trên Bắc Băng Dương rộn rịch hơn, có thể khai thác dầu khí và các khoáng sản ở đáy biển vùng cực Bắc. Điều này khiến các mục tiêu làm giảm tốc độ nóng lên trên toàn cầu trở nên bấp bênh hơn. Lấy của che thân Hiểu một cách ước lệ, nếu các quốc gia bỏ ra 1 đồng vào năm 2020 để đối phó với khí hậu thất thường thì có thể giảm được 30 đồng thiệt hại cho đến 50 năm sau. Cách thức gần như độc nhất và cấp bách mà nhiều diễn đàn quốc tế đã nêu lên là các nước phải tìm cách giảm thiểu tốc độ phát thải khí nhà kính trên quy mô toàn thế giới, song song phải tìm ra các giải pháp thích nghi biệt lập với sự đổi thay khí hậu trong tương lai cho từng ngành nghề, từng nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong từng vùng ở mỗi nhà nước. Đầu tư cho các hoạt động phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu cho các nhà nước nghèo và dễ bị thương tổn, theo ước tính của các chuyên gia, cần ít ra 100 tỉ USD từ nay đến năm 2020. Số tiền này không phải dùng để mua bảo hiểm mà để đầu tư cho các biện pháp gian, giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy đây là một số tiền rất cao nhưng nếu thực hiện tốt có thể giảm thiểu được thiệt hại do thời tiết cực đoan gây nên, chừng 3.000 tỉ USD cho đến năm 2070. Hiểu một cách ước lệ, nếu các nhà nước bỏ ra 1 đồng vào năm 2020 để ứng phó với khí hậu thất thường thì có thể giảm được 30 đồng thiệt hại cho đến 50 năm sau. Đây là con số có ý nghĩa về đầu tư cho kinh tế khí hậu (climate economics), một ngành khoa học mới hình thành gần mười năm nay, đang được nhiều quốc gia phát triển để ý. Nói đến kinh tế khí hậu, sẽ bao gồm hai nguyên tố chính, đó là nguồn kinh phí để thực hành các kế hoạch hành động đối phó với với khí hậu bất thường; và phương cách dùng nguồn kinh phí đó một cách hiệu quả, công bằng và minh bạch. Nguồn kinh phí sẽ gồm tỷ lệ phần trăm phân phối ngân sách nhà nước và đóng góp địa phương, cộng thêm các khoản tài trợ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ. Số tiền này phải được sử dụng một cách khôn ngoan, có lồng ghép cho các nhóm hoạt động mang tính phi công trình và công trình. Các kế hoạch chiến lược phải cân nhắc sau một loạt điều tra, khảo sát, phân tích và tổng hợp các yêu cầu hành động từ ngắn hạn cho đến dài hạn. Các nhà môi trường cho rằng việc dùng các nguồn tài chính nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu phải nhắm đến các hoạt động tập huấn nâng cao năng lực cho cộng đồng người nghèo, giúp các cộng đồng biết xây dựng kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng và lồng ghép quản lý rủi ro thiên tai vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm thiên tai và tăng khả năng, kỹ năng đối phó với thiên tai cho từng thành viên cộng đồng. Việc đào tạo và cung cấp nguồn vốn giúp người nghèo có thêm các sinh kế bền vững và ít bị thiệt hại do những thay đổi của thời tiết và môi trường. Về mặt công trình, nguồn tài chính phải được sử dụng hiệu quả trong các hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông và thủy lợi. Trên quy mô quốc gia, một chiến lược tăng trưởng xanh cần được động viên. Một nền kinh tế xanh phải thỏa mãn ba yêu cầu đẵn: tối thiểu hóa sự phát thải các khí gây ra hiệu ứng nhà kính; tối ưu hóa việc dùng các nguồn tài nguyên tự nhiên; và phát triển phải vững bền trên cơ sở tạo nên một sự công bằng chung cho toàn tầng lớp. PGS.TS Lê Anh Tuấn (viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu – đại học Cần Thơ)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét