Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Mức xử phạt đối với vi phạm các quy định về nếp sống văn hóa?

Hỏi: Mức xử phạt đối với vi phạm các quy định về nếp sống văn hóa? ★ Việc nghỉ phép hằng năm đối với người lao động? ★ Nội dung giám sát bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp? ★ Định mức tài chính tương trợ đối với các hoạt động để thực hành chính sách viện trợ pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo tuổi 2013 - 2020?★ Trường hợp nào phải để lại thông báo cá nhân chủ nghĩa khi mua, bán vàng? Các cơ quan giải đáp: ★ Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch: Theo Nghị định số 75/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, mức xử phạt đối với vi phạm các quy định về nếp sống văn hóa được quy định cụ thể như sau: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến một triệu đồng đối với một trong các hành vi như cho người say rượu, bia vào vũ trường, nơi nhảy công cộng, phòng karaoke; say rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, khách sạn, nhà hàng, quán ăn, vũ trường, nơi khiêu vũ công cộng, phòng karaoke, nơi hoạt động văn hóa, kinh dinh dịch vụ văn hóa, trên các công cụ liên lạc và những nơi công cộng khác; đốt đồ mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa, nơi công cộng khác. Phạt tiền từ một triệu đồng đến ba triệu đồng đối với một trong các hành vi như tổ chức hoạt động lên đồng, xem bói, gọi hồn, xin xăm, xóc thẻ, yểm bùa, bùa chú, quảng bá sấm trạng và các hình thức khác có thuộc tính mê tín dị đoan; tuyên truyền mê tín dị đoan để tiêu thụ hàng mã; treo cờ giang sơn ở khu vực lễ hội không cao hơn, không trọng thể hơn các cờ khác; lợi dụng tín ngưỡng để quyên tiền tài, vật chất khác. Phạt tiền từ hai triệu đồng đến năm triệu đồng đối với hành vi bình phục hủ tục trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng đối với hành vi lợi dụng lễ hội để tổ chức hoạt động gây mất thứ tự, an ninh; tuyên truyền trái luật pháp; chia rẽ kết đoàn dân tộc. ★ Bộ lao động - Thương binh và Xã hội: Người cần lao có đủ 12 tháng làm việc cho một người dùng cần lao thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hiệp đồng lao động như sau: 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường; 14 ngày làm việc đối với người làm thuê việc vất vả, độc hại, nguy hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống hà khắc theo danh mục quy định; 16 ngày làm việc đối với người làm công việc đặc biệt khó nhọc, độc hại, hiểm hoặc người làm việc ở những nơi có điều kiện sinh sống đặc biệt hà khắc. Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo quan điểm của người cần lao và phải thông tin trước cho người cần lao. Người cần lao có thể thỏa thuận với người dùng cần lao để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 3 năm một lần. Khi nghỉ hằng năm, nếu người cần lao đi bằng các dụng cụ đường bộ, đường sắt, đường thủy mà số ngày đi đường cả đi và về hơn hai ngày thì từ ngày thứ ba trở đi được tính thêm thời kì đi đường ngoài ngày nghỉ hằng năm và chỉ được tính cho một lần nghỉ trong năm. Cứ 5 năm làm việc cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm của người lao động được tăng thêm tương ứng một ngày. ★ Bộ công thương nghiệp: Theo Quyết định số 22, ngày 2-1-2014, của Bộ công thương nghiệp, thì nội dung giám sát bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp gồm: Việc đánh giá chừng độ bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp được thực hành theo văn bản hướng dẫn thực hành Nghị định số 71/2013/NĐ-CP, ngày 11-7-2013 của Chính phủ về đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phê duyệt các chỉ tiêu: tỷ suất lợi nhuận thực hành trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (Rẻ), tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA). Các chỉ tiêu này càng cao phản ánh việc dùng vốn, sử dụng tài sản của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Chỉ tiêu lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn chủ sở hữu được xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Thông tư số 158/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn quốc gia. ★ Bộ Tư pháp: Tổ chức các đợt giúp đỡ pháp lý lưu động về các xã nghèo; thôn, bản đặc biệt khó khăn được tương trợ tám triệu đồng/xã/năm; ba triệu đồng/thôn, bản/năm. Thành lập, củng cố và tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ giúp đỡ pháp lý tại các xã nghèo; thôn, bản đặc biệt khó khăn được hỗ trợ sáu triệu đồng/xã/năm (500 nghìn đồng/xã/lần sinh hoạt/tháng); hai triệu đồng/thôn, bản/năm. Biên soạn, in ấn, phát hành miễn phí tờ gấp pháp luật, cẩm nang pháp luật và các tài liệu luật pháp khác; thu và sao sa cát-xét, đĩa CD bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số được tương trợ hai triệu đồng/xã/năm; 500 nghìn đồng/thôn, bản/năm. Đặt Bảng thông tin, Hộp tin về viện trợ pháp lý tại hội sở UBND, trọng tâm bưu điện, nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà văn hóa, Đồn Biên phòng đóng trên địa bàn các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tương trợ ba triệu đồng/xã/lần (2 lần/8 năm); một triệu đồng/thôn, bản/lần (2 lần/8 năm). Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý để cập nhật tri thức luật pháp mới và nâng cao kỹ năng viện trợ pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý, thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ viện trợ pháp lý được tương trợ năm triệu đồng/xã/năm. Hỗ trợ học phí cho viên chức của trọng điểm viện trợ pháp lý quốc gia các tỉnh có các xã nghèo dự khóa đào tạo nghề trạng sư tạo nguồn bổ dụng giúp đỡ viên pháp lý theo quy định hiện hành về mức học phí của Học viện Tư pháp (số lượng tương trợ là ba người/trọng tâm/năm). Hỗ trợ học phí bồi bổ tiếng dân tộc thiểu số cho người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm giúp đỡ pháp lý quốc gia trực tiếp thực hiện viện trợ pháp lý tại các xã nghèo theo quy định hiện hành về mức học phí của từng khóa đào tạo tiếng dân tộc (số lượng tương trợ là hai người/trọng tâm/năm). ★ Nhà băng Nhà nước Việt Nam: Từ ngày 14-2-2014, những nơi bán vàng sẽ phải ít với cơ quan phòng, chống rửa tiền thông tin khách hàng khi giao thiệp vàng có giá trị quy đổi từ 300 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, các giao thiệp nộp, rút tiền mặt từ 300 triệu đồng trở lên tại các ngân hàng đều phải thưa. Như vậy, người dân sẽ phải trình chứng minh thư khi thực hiện giao thiệp lớn, kể cả mua, bán vàng. Dù khách hàng giao tế nhiều lần trong một ngày nhưng tổng số tiền từ 300 triệu đồng trở lên cũng vẫn phải bẩm. Với các cá nhân chủ nghĩa, thông báo cần thưa gồm họ tên, ngày tháng năm sinh, số chứng minh thư hoặc số hộ chiếu, quốc tịch, địa chỉ cư trú. Nếu là doanh nghiệp, khách hàng cần để lại thông báo về tên tổ chức, địa chỉ, nhà nước, mã số thuế (hoặc giấy phép hoạt động, giấy đăng ký kinh doanh). Ngoài những thông tin về khách hàng, thông tin cụ thể về giao du cũng phải thưa cơ quan phòng, chống rửa tiền như số tiền, loại tiền giao du, địa điểm phát sinh giao tiếp và lý do thực hiện. Riêng với giao du mua bán vàng trị giá từ 300 triệu đồng trở lên, các nhà băng và những cửa hàng kinh doanh phải báo cáo giá trị từng giao dịch và tổng giao tiếp trong một ngày (quy đổi sang VND).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét